tin tức

Kiểm soát chặt chẽ khâu mua bán, lưu hành hóa chất

Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 37, sáng 12/9, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi).

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu khai mạc. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Theo Tờ trình của Chính phủ, việc ban hành luật nhằm xây dựng cơ sở pháp lý để đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa chất phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với sự phát triển của ngành công nghiệp hóa chất, quản lý hóa chất, giảm thiểu tối đa rủi ro của các hoạt động hóa chất tới sức khỏe người dân, môi trường, tài sản, xã hội…

Bên cạnh đó, hài hòa hệ thống pháp luật về quản lý hóa chất với quy định của các nước trên thế giới, góp phần tạo môi trường thông thoáng, thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn hóa chất lớn với công nghệ, hệ thống quản lý hiện đại, sản phẩm có giá trị cao trên thế giới mở rộng hoạt động tại Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giao thương quốc tế, đầu tư sản xuất các sản phẩm hóa chất thiết yếu góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Dự thảo Luật gồm 89 Điều, 10 Chương; quy định về hoạt động hóa chất, phát triển công nghiệp hóa chất, hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm, an toàn trong hoạt động hóa chất, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hóa chất, quản lý nhà nước về hóa chất.

Theo Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày, Thường trực Ủy ban tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Hóa chất (sửa đổi). Thời gian gửi hồ sơ dự án Luật bảo đảm đúng quy định; đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024).

Về tên gọi và phạm vi điều chỉnh (Điều 1), áp dụng pháp luật (Điều 3), giải thích từ ngữ (Điều 4), Thường trực Ủy ban thống nhất với tên gọi là Luật Hóa chất (sửa đổi) bảo đảm tính kế thừa, phát triển Luật Hóa chất hiện hành. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát phạm vi điều chỉnh để tránh trường hợp quy định quá rộng hoặc liệt kê không đầy đủ, bảo đảm không phát sinh chồng chéo, xung đột với một số luật khác.

Đối với phát triển công nghiệp hóa chất (Chương II), có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật chỉ có 6 Điều quy định về phát triển công nghiệp hóa chất là chưa đầy đủ, đề nghị nghiên cứu, bổ sung phù hợp một số nội dung quy định như đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thị trường, nguyên liệu, nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học và công nghệ… trong công nghiệp hóa chất.

Qua thảo luận, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao quá trình chuẩn bị hồ sơ dự án Luật cũng như Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh quan điểm là phải tiếp tục rà soát, thể chế hóa chủ trương xây dựng và triển khai lộ trình cấm sử dụng các loại hóa chất độc hại gây ô nhiễm nguồn nước đã nêu tại Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị; Kết luận số 81-KL/TW ngày 4/6/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên môi trường. Đây là kết luận quan trọng, đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng công bằng.

Đối chiếu với các chương, điều, khoản của dự thảo Luật, Chủ tịch Quốc hội nhận thấy, chưa thể hiện rõ những chủ trương này, do đó, đề nghị ban soạn thảo rà soát kỹ lưỡng thể cụ thể hóa trong luật.

Đối với vấn đề quản lý, sử dụng hóa chất cần khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến quy trình, công nghệ, chuyển đổi sang các hóa chất ít nguy hại hơn hoặc giảm thiểu sử dụng hóa chất nguy hại; tăng cường kiểm soát, truy xuất nguồn gốc hóa chất, đặc biệt là các hóa chất nhập khẩu; nâng cao nhận thức về giáo dục, tăng cường truyền thông về tác hại, an toàn hóa chất đối với cộng đồng.

Ngoài ra, tăng cường chế tài xử phạt đối với các quy định về hóa chất; áp dụng mức phạt cao hơn đối với các vi phạm nghiêm trọng, gây hậu quả xấu đến sức khỏe con người và môi trường.

Từ thực tế các vụ án nghiêm trọng xảy ra thời gian qua liên quan đến việc sử dụng tràn lan các hóa chất độc hại, nhiều ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cần phải có quy định, chế tài để kiểm soát đặc biệt, chặt chẽ ở các khâu mua bán, lưu hành.

Cho rằng hiện nay còn tình trạng mua bán hóa chất dễ dàng, quản lý chưa chặt chẽ bởi việc mua bán được đặt hàng qua mạng xã hội, như vậy dễ lọt trong khâu quản lý, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Trung tướng Lê Tấn Tới đề nghị nghiên cứu thêm quy định về quản lý hóa chất đặc biệt nguy hiểm, điển hình như chất xyanua.

Xuất khẩu than, dầu thô giảm sâu trong nửa cuối tháng 8

Theo số liệu công bố ngày 11/9 của Tổng cục Hải quan, nửa cuối tháng 8/2024 (16/8 – 31/8), tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là 20,7 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước (YoY).

Nửa cuối tháng 8, Việt Nam ghi nhận thêm mặt hàng giày dép xuất khẩu mang về trị giá tỷ USD với 1,08 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tiếp tục là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất với 3,73 tỷ USD, tăng tới 28,6% YoY; tiếp đến là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác với 2,68 tỷ USD, tăng 28,8% YoY.

Việt Nam còn xuất khẩu điện thoại và linh kiện với 2,47 tỷ USD, giảm 9,1% so với cùng kỳ và là mặt hàng duy nhất trong nhóm tỷ USD có đà giảm về kim ngạch trong kỳ. Hàng dệt may xuất khẩu cũng mang về 2,19 tỷ USD, tăng 15,4% YoY.

Trong 45 mặt hàng xuất khẩu chính nửa cuối tháng 8/2024, Việt Nam có 13 mặt hàng giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm trước và 32 mặt hàng tăng về giá trị. Dầu thô là mặt hàng có mức giảm lớn nhất với -73% so với cùng kỳ năm trước, đạt 28 triệu USD; than cũng giảm sâu 66,8%, còn 5 triệu USD.

Ngược lại, rau quả xuất khẩu tăng tới 72% so với cùng kỳ năm trước, là mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất, lên 492 triệu USD.

Trong nhóm nông, thủy sản, Việt Nam còn ghi nhận mặt hàng cà phê xuất khẩu tăng tới 42,3% so với cùng kỳ, đạt 201 triệu USD. Tiếp đến là chè tăng 39,6% YoY, đạt 16,2 triệu USD; hạt tiêu tăng 26,2% YoY, đạt 57,2 triệu USD; xuất khẩu hạt điều tăng 13,3% YoY, đạt 218 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng tăng 10,1% YoY, đạt 540 triệu USD.

Trái với đà tăng trưởng trên, kim ngạch xuất khẩu gạo lại giảm 6% so với cùng kỳ, còn đạt 263 triệu USD; xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn giảm 31% YoY, còn 44 triệu USD.

Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, thủy sản đạt 1,83 tỷ USD, tăng 21,1% so với mức 1,51 tỷ USD cùng kỳ năm trước và chiếm 8,8% tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa nửa cuối tháng 8 của Việt Nam.

Nguồn: https://mekongasean.vn/xuat-khau-than-dau-tho-giam-sau-trong-nua-cuoi-thang-8-33320.html

Dù phát triển năng lượng xanh, khí đốt và than đá vẫn đang thống trị lưới điện Hoa Kỳ

 Khí đốt tự nhiên và than vẫn là nguồn cung cấp cho hơn một nửa sản lượng điện của Hoa Kỳ mặc dù chính phủ có động thái thúc đẩy tài trợ phát triển năng lượng gió và năng lượng mặt trời.

Trên thực tế, năng lượng xanh đã tăng theo tỷ lệ phần trăm công suất phát điện và theo tỷ lệ sản lượng. Tuy nhiên, than và khí đốt vẫn chiếm ưu thế, cung cấp 58% lượng điện được tạo ra tại Hoa Kỳ trong tám tháng đầu năm nay, theo dữ liệu từ LSEG.

Theo Reuters, con số này đã giảm so với mức 60,4% trong tám tháng đầu năm 2021, điều này có thể mang lại cho những người ủng hộ quá trình chuyển đổi xanh một số hy vọng về một lưới điện không phát thải carbon, có thể khả thi vào một thời điểm nào đó trong tương lai xa.

Ảnh minh họa: Theo Oilprice.

Tuy nhiên, xét về mặt tuyệt đối, sản lượng từ các nhà máy chạy bằng than và khí đốt đã tăng lên, nghĩa là chúng thực sự cung cấp nhiều điện hơn cho lưới điện so với năm 2021.

Lý giải cho vấn đề này là nhu cầu tiêu thụ điện tăng cao và tính không linh hoạt của năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Là nguồn năng lượng phụ thuộc vào thời tiết, đây là những nguồn không thể cung cấp điện theo nhu cầu trừ khi chúng được ghép nối với các loại pin. Vì vậy, lưới điện phụ thuộc vào tải cơ bản, phát điện 24/7, theo nhu cầu từ các nhà máy điện than và khí đốt.

Tăng trưởng dân số cũng là một trong những lý do lớn nhất dẫn đến nhu cầu điện tăng này. Một lý do khác, được giới truyền thông đưa tin nổi bật hơn, là sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo trong ngành công nghệ thông tin.

Vào tháng 6, Cơ quan Thông tin Năng lượng (IEA) đã báo cáo rằng nhu cầu điện của Hoa Kỳ đã phục hồi sau lệnh phong tỏa do đại dịch Covid-19, với mức tăng trưởng mạnh nhất được ghi nhận ở “một số ít tiểu bang đang phát triển nhanh chóng các cơ sở điện toán quy mô lớn như trung tâm dữ liệu”.

Thật vậy, các trung tâm dữ liệu và sự phát triển của các ứng dụng trí tuệ nhân tạo đang trở thành những thách thức tiềm tàng đáng kể đối với quá trình chuyển đổi năng lượng do nhu cầu điện mà chúng sẽ bổ sung vào tổng nhu cầu hiện tại.

Ngoài ra còn có những vấn đề về nguyên liệu thô xây dựng tất cả các trung tâm dữ liệu cần thiết nhằm cho phép sử dụng trí tuệ nhân tạo nhiều hơn nữa, từ đó sẽ làm tăng thêm nhu cầu điện cần được đáp ứng bởi các nguồn cung cấp đáng tin cậy 24/7.

Trong bối cảnh này, không có gì ngạc nhiên khi khí đốt tự nhiên đang có nhu cầu ngày càng tăng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế đã thừa nhận điều này trong một báo cáo từ tháng 12 năm ngoái.

Trong đó, IEA cho biết “giá khí đốt tự nhiên giảm đáng kể, các nhà máy điện than ngừng hoạt động, sản lượng điện gió và thủy điện thấp và nhu cầu làm mát cao ở một số khu vực đã khiến tỷ trọng khí đốt tăng lên”, đạt 45% tổng sản lượng điện vào những tháng mùa hè năm 2023.

Nhu cầu khí đốt sẽ tiếp tục tăng khi nhu cầu về điện tăng và không có lượng công suất điện mặt trời và gió mới nào thực sự có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu này. Điều này có thể trở thành vấn đề vì việc xây dựng các nhà máy điện chạy bằng khí đốt mới thậm chí còn không hợp thời bằng việc xây dựng các cơ sở điện mặt trời.

Đầu năm nay, Upstream đã báo cáo dữ liệu từ Ủy ban quản lý năng lượng liên bang tiết lộ rằng chỉ có 67 MW công suất phát điện khí đốt tự nhiên mới được bổ sung trong bốn tháng đầu năm. Con số này so với mức ấn tượng hơn nhiều là 5,1 GW trong cùng kỳ năm 2023. Các dự án năng lượng mặt trời bổ sung trong cùng kỳ đạt 7,9 GW, tăng so với mức 3,8 GW của năm ngoái.

Trong khi đó, việc xây dựng một nhà máy khí đốt tự nhiên mới trở nên khó khăn hơn do các quy định về khí thải của EPA được cập nhật, đặt ra các yêu cầu nặng nề và tốn kém đối với các nhà phát triển, khiến họ phải cân nhắc kỹ trước khi xây dựng bất kỳ nhà máy mới nào. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi vì trí tuệ nhân tạo.

Doug Kimmelman, người sáng lập kiêm đối tác cấp cao tại Energy Capital Partners, công ty đầu tư vốn tư nhân, đã nói với tờ Financial Times vào đầu năm nay rằng: “Khí đốt là nguồn năng lượng duy nhất tiết kiệm chi phí, có khả năng cung cấp loại năng lượng đáng tin cậy 24/7 mà các công ty công nghệ lớn yêu cầu để thúc đẩy sự bùng nổ AI”.

“Sẽ không thể thực hiện được nếu không có khí đốt”, giám đốc điều hành EQT Toby Rice cho biết khi vấn đề nhu cầu điện từ các trung tâm dữ liệu trở thành tâm điểm chú ý của giới truyền thông, cùng với vấn đề điện khí hóa, vốn đang được quảng bá là một phần thiết yếu của quá trình chuyển đổi năng lượng.

Mặc dù rất thiết yếu, nhưng việc điện khí hóa giao thông, sưởi ấm và nấu nướng cũng sẽ tạo ra nhu cầu mới và gây thêm căng thẳng cho lưới điện. Đổi lại, điều này sẽ củng cố sự phát triển của năng lượng hydrocarbon vì năng lượng hạt nhân vẫn không được ưa chuộng do chi phí xây dựng cao.

Nguồn: https://www.congluan.vn/du-phat-trien-nang-luong-xanh-khi-dot-va-than-da-van-dang-thong-tri-luoi-dien-hoa-ky-post311666.html

Ngành vật liệu xây dựng: Tăng tốc chuyển đổi xanh

Đến nay, tỷ lệ đô thị hóa tại Bình Dương đạt 85%. Đáng ghi nhận là quá trình đô thị hóa ở Bình Dương đang được định hướng theo mục tiêu phát triển xanh.

Các công trình lớn trên địa bàn tỉnh đang sử dụng vật liệu không nung. Trong ảnh: Dự án Khu nhà ở An Sinh – Khu đô thị sinh thái Chánh Mỹ

 Yêu cầu cấp thiết

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, công trình xây dựng trong cả nước đang tạo ra 33% lượng khí thải carbon và 40% chất thải rắn, kéo theo những tác động về môi trường do ô nhiễm bụi và rác thải xây dựng khó tái chế. Bên cạnh đó, hiện nay nguồn tài nguyên khoáng sản cung ứng cho ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) đang ngày càng cạn kiệt, đặt ra những thách thức cho quá trình đầu tư các dự án hạ tầng.

Do vậy, việc phát triển vật liệu thay thế, vật liệu xanh nhằm giảm thiểu khai thác tài nguyên, khoáng sản, tăng thêm các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính. Đây vừa là xu thế tất yếu, vừa là mục tiêu hướng tới của ngành xây dựng và công nghiệp sản xuất VLXD Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 như cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có nhiều doanh nghiệp (DN), nhà máy sản xuất gạch không nung, như Công ty CP VietCem, Công ty Cổ phần HASS, Công ty CP VLXD Biconsi, Công ty TNHH Phước Phú Thành. Ông Lê Kim Giàu, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần HASS (phường Thạnh Phước, TP.Tân Uyên), cho biết HASS đã trang bị công nghệ sản xuất hiện đại của Đức với tổng vốn đầu tư 400 tỷ đồng, công suất 200.000m3/ năm. Hiện sản phẩm của công ty được tiêu thụ ở thị trường nội địa và xuất khẩu.

Cùng với đó, các sở, ban, ngành, chủ đầu tư các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm chỉ thị của UBND tỉnh về việc tăng cường sản xuất, sử dụng VLXD không nung để thay thế gạch đất sét nung trên địa bàn tỉnh phù hợp với quy định của Chính phủ, bảo đảm lộ trình đến năm 2025 tại các khu đô thị từ loại III trở lên sử dụng tối thiểu 80% vật liệu xây không nung. Các công trình xây dựng từ 9 tầng trở lên phải sử dụng tối thiểu 80% vật liệu xây không nung so với tổng khối lượng vật liệu xây, trong đó ưu tiên sử dụng cấu kiện nhẹ, kích thước lớn.

Bên cạnh dự án từ vốn đầu tư công sử dụng gạch không nung, các dự án đô thị lớn đang triển khai trên địa bàn tỉnh như dự án Sycamore, Khu nhà ở An Sinh – Khu đô thị sinh thái Chánh Mỹ (TP.Thủ Dầu Một)… trong quá trình xây dựng đã sử dụng gạch xi măng cốt liệu, gạch bê tông khí chưng áp với tỷ lệ sử dụng 80-85% so với tổng khối lượng xây. Đây là những tín hiệu đáng mừng trong việc phát triển sử dụng vật liệu không nung trên địa bàn tỉnh.

Phối hợp tháo gỡ những bất cập

Bên cạnh kết quả đã đạt được, đánh giá của cơ quan chức năng cho thấy quá trình chuyển đổi xanh trong lĩnh vực xây dựng vẫn còn những bất cập và chưa đồng đều giữa khu vực xây dựng dân dụng riêng lẻ của cư dân và công trình lớn của các tổ chức, DN. Nếu ở các công trình có vốn đầu tư công, công trình lớn đã sử dụng vật liệu xanh thì ở công trình riêng lẻ của cư dân còn khiêm tốn, lý do cơ bản là giá thành vật liệu xanh cao hơn vật liệu thông thường. Bên cạnh đó, đội ngũ công nhân có tay nghề sử dụng thành thạo các công cụ chuyên dùng để bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật còn thiếu; các loại vữa đặc chủng để xây, trát làm gia tăng chi phí xây dựng dẫn đến khó cạnh tranh với gạch nung truyền thống…

Khó khăn nữa là dây chuyền, thiết bị hiện nay của DN sản xuất VLXD không nung đều được nhập khẩu từ Đức, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Nhật Bản với chi phí ban đầu rất cao, khiến nhiều DN gặp khó khăn trong việc cân đối tài chính để đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng, tiến tới giảm giá thành sản phẩm phục vụ đại trà… Theo ông Lê Kim Giàu, để đầu tư một nhà máy sản xuất gạch không nung chưng áp cần một nguồn tài chính khá lớn. Trong khi đó, Nhà nước chưa có cơ chế cụ thể hỗ trợ vốn cho DN đầu tư vào lĩnh vực này cũng là một áp lực lớn nếu sử dụng nguồn vốn vay.

 Hoạt động sản xuất gạch không nung tại Công ty Cổ phần HASS

Nhằm thúc đẩy ngành sản xuất VLXD của Việt Nam chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng xanh hóa nói chung và ổn định ngành sản xuất VLXD không nung nói riêng, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, ban hành đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến sản phẩm VLXD xanh, thân thiện với môi trường, làm cơ sở cho các DN, đơn vị đầu tư dự án có căn cứ áp dụng trong quá trình sản xuất.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền về VLXD xanh nhằm thay đổi nhận thức của các chủ thể tham gia trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Đồng thời, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ cụ thể cho DN đầu tư sản xuất vật liệu xanh nói chung; các DN cần chủ động kết nối, chia sẻ nghiên cứu tìm ra giải pháp để giảm giá thành hơn nữa đối với VLXD xanh, nhằm cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế.

 Quyết định số 2171/ QĐ-TTg ngày 23-12- 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung tại Việt Nam đến năm 2030 sẽ gắn mục tiêu đẩy mạnh sản xuất và sử dụng vật liệu gạch không nung thay thế gạch đất sét nung. Cụ thể, gạch không nung sẽ thay thế một phần gạch đất sét nung với tỷ lệ 35-40% vào năm 2025, 40-45% vào năm 2030 trong tổng số vật liệu xây.

Nguồn: https://baobinhduong.vn/nganh-vat-lieu-xay-dung-tang-toc-chuyen-doi-xanh-a330611.html

Gỡ khó cho vật liệu xây dựng cần giải pháp toàn diện

Năm 2024, ngành vật liệu xây dựng đối mặt với nhiều thách thức lớn, từ biến động giá nguyên vật liệu, sự khan hiếm nguồn cung đến những khó khăn trong giải ngân đầu tư công làm hạn chế nhu cầu.

Ông Nguyễn Tiến Vinh, Phó Chủ tịch Hội Gạch xây dựng Bắc Ninh cho biết, công suất của các đơn vị thành viên Hội đều đã giảm 30-40% trong 1-2 năm vừa qua. Cùng với đó, các doanh nghiệp còn tồn kho hàng chục triệu viên gạch, hoạt động sản xuất, kinh doanh đang bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Do tiêu thụ sản phẩm chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, dẫn đến dòng tiền khó khăn.

Ông Kiều Đình Hương, Giám đốc Công ty CP Xuân Hòa chia sẻ thêm, biến động giá nguyên vật liệu là một trong những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành vật liệu xây dựng. Giá thép, xi măng, và đặc biệt là cát xây dựng liên tục tăng cao, gây áp lực lớn lên chi phí sản xuất và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, cần có những biện pháp kiểm soát giá cả nguyên vật liệu một cách hiệu quả.

Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp ngành này, Chính phủ đã có một số giải pháp can thiệp. Vừa qua, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký ban hành Chỉ thị 28/CT-TTg ngày 26/8/2024 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.

Kiến nghị một số giải pháp mang tính toàn diện hơn, ông Đặng Việt Dũng, Chủ tịch Tổng Hội Xây dựng Việt Nam cho biết, đầu tư công là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của ngành vật liệu xây dựng, đặc biệt là trong những dự án hạ tầng giao thông trọng điểm như cao tốc Bắc – Nam và sân bay Long Thành. Vì vậy, Chính phủ cần tăng cường giải ngân vốn đầu tư công, đảm bảo các dự án này được triển khai đúng tiến độ, từ đó tạo ra nhu cầu lớn về vật liệu xây dựng.

Về phía các doanh nghiệp, ông Dũng khuyến nghị, sự phát triển của công nghệ đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành vật liệu xây dựng trong việc phát triển các loại vật liệu mới, vừa tiết kiệm chi phí vừa thân thiện với môi trường. Những vật liệu như gạch bê tông khí chưng áp, kính tiết kiệm năng lượng, hay các loại vật liệu tái chế đang trở thành xu hướng trong ngành xây dựng hiện đại. Việc sử dụng các loại vật liệu mới không chỉ giúp giảm áp lực lên nguồn cung truyền thống mà còn đáp ứng được các yêu cầu về phát triển bền vững.

Ông Dũng cho rằng, doanh nghiệp cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng hành cùng doanh nghiệp, Chính phủ cũng cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá và khuyến khích sử dụng các loại vật liệu này thông qua các chính sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ vốn.

Bên cạnh việc tập trung vào thị trường nội địa, việc mở rộng thị trường xuất khẩu cũng là một giải pháp quan trọng giúp các doanh nghiệp trong ngành vật liệu xây dựng vượt qua khó khăn. Thị trường xuất khẩu mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh nhu cầu xây dựng tại các quốc gia đang phát triển ngày càng tăng cao.

Để tận dụng cơ hội này, doanh nghiệp cần đầu tư vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tìm kiếm các đối tác kinh doanh mới tại các thị trường tiềm năng. Trong quá trình đó, Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đàm phán các hiệp định thương mại tự do, giải quyết các rào cản thương mại và thúc đẩy xúc tiến thương mại tại các thị trường mới, ông Dũng cho biết thêm.

Để giúp các doanh nghiệp trong ngành vật liệu xây dựng vượt qua khó khăn, Chính phủ cần đưa ra các gói hỗ trợ tài chính, bao gồm giảm lãi suất, giãn nợ, hoặc cung cấp các khoản vay ưu đãi. Điều này giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực để duy trì hoạt động sản xuất, đầu tư vào công nghệ mới và mở rộng thị trường. Ngoài ra, cần có các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, những đơn vị đang gặp nhiều khó khăn nhất trong bối cảnh hiện nay. Sự hỗ trợ kịp thời sẽ giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn và tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.

Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/go-kho-cho-vat-lieu-xay-dung-can-giai-phap-toan-dien-155334.html

Nhiệt điện Quảng Ninh tập trung cao độ khắc phục hậu quả sau cơn bão số 3 (YAGI)

Bão số 3 (có tên gọi là YAGI) được các chuyên gia đánh giá là cơn bão có cường độ rất mạnh, mức rủi ro thiên tai rất lớn, diễn biến phức tạp.

Thực hiên nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ ban ngành, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hạ Long, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Phát điện 1 trong công tác triển khai ứng phó cơn bão số 3, Công ty cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh đã xây dựng phương án phòng chống bão lũ và thiên tai trước, trong và sau khi bão. Xác định đây là cơn bão mạnh có sức tàn phá lớn, nên CBCNV không được chủ quan, lơ là phải chủ động các tình huống ứng phó khi bão đổ bộ.

Hình ảnh thiệt hại do cơn bão số 3 tại phường Bãi cháy, thành phố Hạ Long

Sáng ngày 07/9/2024, trước khi bão số 3 đổ bộ vào tỉnh Quảng Ninh, Ban Lãnh đạo Công ty, Ban chỉ huy phòng chống lụt bão, cứu nạn cứu hộ Công ty, cùng trưởng các đơn vị, đại diện các tổ chức đoàn thể đã tổ chức họp, phân công nhiệm vụ triển khai ứng trực chỉ huy các lực lượng phòng chống cơn bão số 3 và đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn cho con người và thiết bị. Khi Bão đổ bộ vào tỉnh Quảng Ninh CBCNV phải hết sức chủ động ứng phó yêu cầu đảm bảo an toàn tuyệt đối về con người.

Đồng chí Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch HĐQT, Trưởng ban chỉ huy PCTT&TKCN Công ty chủ trì cuộc họp với các thành viên

Đến chiều cùng ngày, ngay sau khi sức gió giảm, Ban Lãnh đạo, Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn của Công ty, cùng trưởng các đơn vị đã đi kiểm tra hiện trường, họp đánh giá tình hình mức độ ảnh hưởng thiệt hại và đề ra các giải pháp khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra.  Bước đầu đánh giá đây cơn bão có sức tàn phá lớn gây hậu quả nghiêm trọng đối với cơ sở nhà xưởng và vật kiến trúc, hạ tầng công nghệ thông tin. Do ảnh hưởng của Bão làm hệ thống điện vận hành không ổn định, dẫn đến các tổ máy của Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh phải dừng hoạt động để đảm bảo an toàn. Nhiều vị trí mặt bằng, nhà xưởng của Công ty bị ảnh hưởng nghiêm trọng như các tủ điện điều khiển, hệ thống băng tải bị hư hỏng, đứt, vỡ kính, lốc bay mái tôn, toàn bộ cây xanh trong nhà máy bị đổ gẫy, hệ thống biển báo bị hư hại,..Mặc dù vậy hiện nay Công ty vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối về con người, không có thương vong xảy ra.

Nhiều vị trí mặt bằng, nhà xưởng của Công ty bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Nhiều vị trí trong hệ thống băng tải nhiên liệu Công ty bị hư hỏng, đứt gẫy

Trước mắt, Công ty cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh đang huy động toàn bộ lực lượng  tập trung cao độ khắc phục hậu quả đưa tổ máy hoạt động trở lại theo yêu cầu của hệ thống điện Quốc gia, đảm bảo phát điện phục vụ sinh hoạt của nhân dân và phát triển kinh tế của đất nước./.

Nguồn: http://www.quangninhtpc.com.vn/d6/news/Nhiet-dien-Quang-Ninh-tap-trung-cao-do-khac-phuc-hau-qua-sau-con-bao-so-3-YAGI-6-192-1790

Giữ vững đà tăng trưởng ngành công nghiệp

Không khí thi đua lao động tại các công ty, nhà máy, đơn vị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì khá sôi nổi, với quyết tâm hoàn thành sớm kế hoạch năm.

Các đơn vị duy trì sản xuất 3 ca kể cả ngày nghỉ lễ.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch năm 2024, Công ty TNHH Một thành viên Apatit Việt Nam (Công ty Apatit Việt Nam) đối mặt với không ít khó khăn, thách thức bởi 5 khai trường được Bộ Tài nguyên và Môi trường cho phép khai thác khoáng sản, thì có khai trường đã hết trữ lượng được phép khai thác, khai trường còn thời hạn giấy phép nhưng đã hết trữ lượng được phép khai thác, một số khai trường chưa đủ điều kiện đưa vào khai thác do vướng mắc về các thủ tục pháp lý về đất đai, hồ chứa bùn quặng đuôi thải ở các nhà máy tuyến đã đầy…

Hoạt động sản xuất tại đơn vị trực thuộc Công ty Apatit Việt Nam.

Với quyết tâm duy trì vững chắc đà tăng trưởng của ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, đơn vị liên quan tích cực hỗ trợ Công ty Apatit Việt Nam tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan để đảm bảo duy trì hoạt động khai thác, sản xuất quặng apatit, cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất hóa chất, phân bón trên địa bàn tỉnh và cả nước.

Khai thác quặng apatit.

Ông Nguyễn Thanh Hà, Tổng Giám đốc Công ty Apatit Việt Nam cho biết: Với sự chỉ đạo quyết liệt từ phía chính quyền tỉnh và sự vào cuộc hỗ trợ tích cực của các sở, ngành, địa phương, những tồn đọng, vướng mắc đã và đang được giải quyết, tạo thuận lợi cho việc hoạch định và thực hiện kế hoạch, cũng như hoàn thành mục tiêu sản xuất của đơn vị trong năm và giai đoạn tiếp theo.

Trên khai trường khai thác quặng apatit.

Để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất năm, đặc biệt lượng quặng apatit cung cấp cho các đối tác, các đơn vị tuyển, vận tải đường sắt, bốc xúc tiêu thụ… vẫn duy trì hoạt động sản xuất bình thường trong tất cả các ngày nghỉ lễ trong năm. Vì thế, trong 8 tháng năm 2024, công ty đã sản xuất gần 1,35 triệu tấn quặng 1, 2, quặng tuyển; gần 2,9 triệu tấn quặng 3 và giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 2.499 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Thanh Hà , Tổng Giám đốc Công ty Apatit Việt Nam phát biểu tại buổi làm việc giữa UBND tỉnh và Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.

Công ty Apatit Việt Nam mong muốn tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tiếp tục hỗ trợ sớm hoàn thành giải phóng mặt bằng các khai trường để có nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ sản xuất chế biến, cũng như duy trì ổn định đà tăng trưởng của đơn vị và nâng cao thu nhập của khoảng 1.800 người lao động, ông Nguyễn Thanh Hà nêu đề nghị.

Trên khai trường khai thác quặng đồng thuộc Công ty Cổ phần đồng Tả Phời.

Năm 2024, Công ty Cổ phần đồng Tả Phời đặt mục tiêu khai thác 1 triệu tấn quặng thô, tuyển 33.000 tấn quặng đồng và nộp ngân sách nhà nước gần 400 tỷ đồng. Để đảm bảo kế hoạch trên và nguồn nguyên liệu quặng phục vụ cho hoạt động sản xuất của Chi nhánh Luyện đồng Lào Cai, các phân xưởng của công ty duy trì sản xuất 3 ca, đồng thời động viên công nhân làm việc xuyên các ngày nghỉ lễ.

Vận hành dây chuyền tuyển quặng đồng.

Ông Nguyễn Trọng Quý, Quản đốc Phân xưởng cơ điện tuyển khoáng, Công ty Cổ phần đồng Tả Phời cho biết: Sau khi hoạt động trở lại vào cuối năm 2023, do sự cố vỡ cống thoát nước, công ty đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm quy trình sản xuất, xây dựng phương án tổ chức sản xuất để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Quán triệt sâu sắc chủ trương trên, không khí làm việc luôn được duy trì sôi động khắp phân xưởng; nhà xưởng, công nhân làm việc với tinh thần hăng say, trách nhiệm cao.

Hoạt động sản xuất tại Nhà máy Luyện đồng Bản Qua.

Tương tự, tại cả hai nhà máy luyện đồng thuộc Chi nhánh Luyện đồng Lào Cai cũng duy trì sản xuất 3 ca liên tục, kể cả trong những ngày lễ, tết. Ông Đoàn Vũ Long, Phó Giám đốc Chi nhánh Luyện đồng Lào Cai chia sẻ: Hiện nay, cả hai nhà máy luyện đồng duy trì hoạt động sản xuất liên tục 100% công suất thiết kế để đảm bảo nguồn cung sản phẩm đồng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Do đó, các nhà máy đều xây dựng kế hoạch, phương án và bố trí nguồn nhân lực hợp lý đảm bảo vận hành dây chuyền, thiết bị an toàn, hiệu quả nhất. Người lao động làm việc trong kỳ nghỉ lễ, tết đều được đảm bảo chế độ, quyền lợi theo quy định.

Chi nhánh Luyện đồng Lào Cai đã sản xuất hơn 19.347 tấn đồng tấm cathode.

Từ đầu năm đến nay, Chi nhánh Luyện đồng Lào Cai đã sản xuất hơn 19.347 tấn đồng tấm cathode, đạt 64,49% kế hoạch năm; hơn 583 kg vàng thỏi, đạt 61,20% kế hoạch năm; hơn 1.396 kg bạc thỏi, đạt 76,20% kế hoạch năm; hơn 82.300 tấn axit sulfuric, đạt 64,35% kế hoạch năm; hơn 8.255 tấn thạch cao nhân tạo, đạt 91,73% kế hoạch năm…

Quá trình sản xuất không để xảy ra mất an toàn cho người và thiết bị, không có sự cố về môi trường. Các chế độ, quyền lợi của người lao động được đảm bảo; duy trì việc làm, an sinh xã hội và thu nhập ổn định cho người lao động, đặc biệt là những người lao động trực tiếp.

Hoạt động sản xuất tại Công ty Cổ phần Hoá chất Đức Giang – Lào Cai.

Theo đánh giá của Sở Công Thương Lào Cai, trong tháng 8/2024, dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn vẫn tăng nhẹ so với tháng trước, đặc biệt là giá trị công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11%. Các dự án sản xuất phân bón, phốt pho vàng, axit sunfuric, axit photphoric hoạt động ổn định, sản lượng sản xuất và tiêu thụ đều cao hơn tháng trước. Đây là tháng có khí hậu thời tiết khá thuận lợi cho các đơn vị sản xuất điện năng. Hệ thống cung cấp điện đảm bảo an toàn, liên tục, ổn định cho sản xuất, sinh hoạt tại tất cả các khu vực trong tỉnh.

Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tháng 8/2024 của tỉnh đạt 4.138 tỷ đồng (giá so sánh), tăng 4,01% so với tháng 7 và lũy kế đạt 29.489 tỷ đồng, bằng 56,5% so với kế hoạch, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2023.

Các nhà máy thủy điện duy trì sản xuất ổn định.

Lý giải về giá trị sản xuất công nghiệp đạt thấp so với kế hoạch năm, theo lãnh đạo Sở Công Thương Lào Cai, do trong những tháng đầu năm, một số đơn vị sản xuất công nghiệp tạm ngừng sản xuất để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, tái cơ cấu doanh nghiệp, nâng cấp dây chuyền, xử lý hệ thống xả thải… Bên cạnh đó, các đơn vị sản xuất, chế biến sâu khoáng sản còn gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng, khâu tiêu thụ, thiếu nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu không đảm bảo chất lượng…

Ông Hoàng Văn Thuân, Phó Giám đốc Sở Công Thương Lào Cai phát biểu tại buổi làm việc giữa UBND tỉnh và Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.

Ông Hoàng Văn Thuân, Phó Giám đốc Sở Công Thương Lào Cai cho rằng: Hiện nay, những vướng mắc liên quan đến giải phóng mặt bằng các dự án khai trường khai thác quặng của Công ty Apatit Việt Nam đã và đang được UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết dứt điểm, tạo điều kiện cho công ty gia tăng năng lực sản xuất, cung cấp nguồn nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất phân bón, phốt pho…

Cùng với đó, các nhà máy thủy điện, tuyển đồng, luyện đồng đang được duy trì hoạt động ổn định sẽ góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng sản xuất công nghiệp của tỉnh những tháng cuối năm.

Nguồn: https://baolaocai.vn/giu-vung-da-tang-truong-nganh-cong-nghiep-post389482.html

 

Ngành điện nửa cuối 2024: Dự báo thủy điện phục hồi, nhiệt điện tiếp tục hưởng lợi

Nhận định về ngành điện nửa cuối năm 2024, VCBS cho rằng thủy điện vẫn là nguồn điện được ưu tiên huy động do giá rẻ; nhiệt điện than hưởng lợi nhờ sản lượng tiếp tục được huy động cao. Nguồn cung điện khí đang suy giảm nhưng các dự án đang được đẩy mạnh triển khai để bù đắp thiếu hụt.

Trong báo cáo “Ngành điện chuyển mình, tiến vào chu kỳ mới” của VCBS, nhu cầu tiêu thụ điện được dự báo tăng trong nửa cuối 2024, dẫn đến việc EVN sẽ tăng cường huy động công suất các nhà máy điện hiện hữu và phụ tải.

Sản lượng điện sản xuất trong năm 2024 được dự báo tăng trưởng ở mức 9% (đạt 306 tỷ kWh). Dù là mức tăng đáng kể do mức nền thấp 2023, nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn kế hoạch của Bộ Công Thương (10.7%). Nguyên nhân do nhóm công nghiệp sản xuất tăng trưởng vẫn yếu; El Nino làm nhu cầu điện sinh hoạt gia tăng vào mùa nóng; nguồn khí cho nhóm nhiệt khí đang suy giảm; và nhu cầu than gia tăng dẫn đến phải tăng lượng than nhập khẩu.

La Nina trở lại, thủy điện thuận lợi hơn nhưng không còn nhiều tiềm năng 

Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Quốc tế (IRI), La Nina có thể trở lại vào nửa sau năm 2024, sau khi El Nino tiếp tục duy trì với xác suất từ 80-100% với cường độ giảm dần đến hết quý 1 và chuyển sang pha trung tính trong quý2. Các nhà máy thủy điện sau khi bị ảnh hưởng tiêu cực do pha El Nino sẽ hưởng lợi từ La Nina vào nửa cuối năm nhờ tình hình thủy văn thuận lợi, mưa nhiều, mực nước về hồ nhiều hơn.

Tuy nhiên trong bối cảnh EVN vẫn đang gặp khó khăn tài chính, thủy điện vẫn là nguồn điện được ưu tiên huy động do rẻ nhất hệ thống. Tuy nhiên thủy điện chịu tác động mạnh bởi thời tiết và diễn biến sát sao theo biến động thủy văn.

VCBS dự kiến công suất thủy điện đạt 29,346 MW đến năm 2030, và hơn 36,000 MW đến năm 2050. Hiện tại, tổng công suất nguồn thủy điện đến năm 2023 đã đạt gần 23 ngàn MW (gồm khoảng 18 ngàn MW thủy điện vừa và lớn). Do đó, tiềm năng nguồn thủy điện vừa và lớn như vậy về cơ bản đã được khai thác gần hết, chỉ còn dư địa cho thủy điện nhỏ xây mới, hoặc tăng trưởng nhờ mở rộng các nhà máy hiện hữu.

Trong giai đoạn từ 2021-2025, dự kiến sẽ có 3 nhà máy thủy điện lớn đi vào vận hành: Hòa Bình MR, Ialy MR và Trị An MR.

Nhiệt điện than đang hưởng lợi nhưng đang dần tiến tới bị loại bỏ

Các nhà máy nhiệt điện tại miền Bắc sẽ có triển vọng tăng trưởng cao hơn trong nửa đầu năm do khu vực này đang có nguy cơ thiếu điện rất cao. Công suất lắp đặt tại miền Bắc không tăng trưởng trong khi nhu cầu phụ tải ngày càng gia tăng. Miền Bắc chủ yếu là thủy điện và nhiệt điện than. Thủy điện thiếu ổn định và ảnh hưởng của EL Nino trong nửa đầu năm 2024 sẽ giúp nhiệt điện than tiếp tục duy trì ở mức cao.

Bộ Công Thương và các ban ngành liên quan đã lên kế hoạch để đảm bảo cung cấp đủ than cho sản xuất điện năm 2024 như khai thác tối đa nguồn than trong nước, đa dạng hóa nguồn than nhập khẩu để đảm bảo đủ than đầu vào cho nhà máy điện vận hành ổn định và đáp ứng kế hoạch cung cấp và vận hành hệ thống điện quốc gia. Nguồn cung than cho sản xuất điện năm 2024 được dự báo đạt mức 74 triệu tấn than (+20% yoy).

Tuy nhiên nguồn cung than trong nước dự kiến đáp ứng là 48,2 triệu, còn lại phải nhập thêm hơn 26 triệu tấn. Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) chia sẻ: Trong điều kiện khó khăn ngày càng khai thác xuống sâu, dự kiến năm 2024, Tập đoàn sẽ sản xuất 38,74 triệu tấn than, tiêu thụ 50 triệu tấn than; sản lượng phát điện tối thiểu 10,5 tỷ kWh.

Nhu cầu than trên toàn thế giới được dự báo giảm từ năm 2024, với một phần từ tốc độ phát triển của năng lượng tái tạo (NLTT), xen lẫn các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu như kinh tế Trung Quốc phục hồi, hay đà giảm tại Mỹ và EU.

Nhìn chung, sản lượng than toàn cầu được dự báo giảm từ năm 2024, phù hợp với nhu cầu than toàn cầu. Giá than được dự báo giảm, tạo điều kiện cho Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) giảm giá than trộn, giúp giá bán điện than cạnh tranh hơn. VCBS kỳ vọng giá than trộn 2024-2025 sẽ giảm theo đà giảm của thế giới, qua đó giảm áp lực chi phí đầu vào cho các nhà máy điện.

Mặt khác, trong dài hạn, điện than đang được tiến tới loại bỏ dần, với nhiều dự án chậm tiến độ hoặc nằm trong diện bị loại trong Quy hoạch điện 8 (QHĐ8).

Thống kê từ VCBS, miền Bắc có thêm khoảng 3.160 MW điện than nếu các dự án bị chậm tiến độ có thể hoàn thành kịp đến năm 2030. Trong khi đó, nhu cầu được tính toán theo QHĐ8 cần có thêm 10.800 MW mới để áp ứng.

Nhiều dự án nhiệt điện than bị chậm tiến độ và bị loại bỏ trong Quy hoạch điện VIII.

Tại miền Trung, dự án Nhiệt điện Quảng Trạch 1 (1.200 MW) dự kiến hoàn thành vào năm 2026, đang chậm tiến độ 5 năm. Còn Nhiệt điện Quảng Trạch 2 (2027-2028) được chuyển sang sử dụng khí LNG.

Ở miền Nam, 2 dự án nhiệt điện than chưa bố trí được vốn là Sông Hậu 2 BOT (2.000 MW) và Vĩnh Tân 3 BOT (1.980 MW). Nhiệt điện Long Phú 1 (1,200 MW) dự kiến đưa vào năm 2018-2019 hiện đã bị dừng lại do nhà thầu Powermachine – Nga bị Mỹ cấm vận.

Quy hoạch điện 8 cũng loại bỏ một loạt dự án điện than ở miền Nam với công suất khoảng 6.600 MW như Long Phú 2 và 3, Long An 1 và 2, còn dự án Nhiệt điện Bạc Liêu chuyển sang LNG.

Nhiệt điện khí LNG sẽ được đẩy mạnh phát triển

Theo đánh giá của VCBS, các mỏ khí chủ lực hiện đang trong giai đoạn suy giảm sau quá trình dài khai thác, khiến sản lượng khí điện tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ giảm dần. Nguồn cung khí nội địa mới cho điện chỉ còn mỏ Cá Voi Xanh và Báo Vàng ở miền Trung, và nguồn khí Lô B.

Tổng cung khí cho điện giai đoạn 2035-2045 sẽ chỉ còn duy trì khoảng 7,7 tỷ m3/năm, trong khi nhu cầu dự báo ngày càng tăng với các lĩnh vực điện, hóa chất, công nghiệp, vận tải… Tổng nhu cầu khí dự kiến theo quy hoạch ngành khí (nhu cầu cơ sở) lên tới khoảng 13 tỷ m3 vào năm 2020, hơn 22 tỷ m3 vào năm 2025 và trên 34 tỷ m3 vào năm 2030.

Trong khi đó, sản lượng khai thác khí trong nước đang ngày càng giảm dần. Do vậy, việc nhập khẩu khí LNG là tất yếu để đáp ứng nhu cầu khí trong nước.

Ngoài ra, để bù đắp, các dự án khí nội địa cũng được đẩy mạnh khai thác. Dự kiến đến năm 2030, sẽ có khoảng 6,500 MW công suất nhiệt điện khí trong nước được triển khai, với 10 dự án, tổng công suất 8,740 MW.

Tuy nhiên, hầu hết dự án quan trọng lại bị chậm tiến độ. Như chuỗi khí – điện Lô B – Ô Môn (3,750 MW), hiện mới có Ô Môn 1 vận hành từ năm 2009 (chạy dầu FO). Cả chuỗi dự kiến có thể vào được đầu năm 2027, chậm 15 năm so với QHĐ7. Do EVN thua lỗ và gặp khó khăn về tài chính, chủ đầu tư của 2 dự án Ô Môn 3, 4 đã được Chính phủ cho phép chuyển từ EVN sang PVN.

Chuỗi khí – điện Cá Voi Xanh cấp khí cho các nhà máy ở khu vực Chu Lai (Quảng Nam) và Dung Quất (Quảng Ngãi), tổng công suất 3,750 MW đã được đưa vào QHĐ7 điều chỉnh vào năm 2023-2024, nhưng đến nay chưa triển khai được bất kỳ khâu nào do vướng mắc nhiều thủ tục ở khâu thượng nguồn.

Trong dài hạn, điện khí từ LNG vẫn là nguồn được tập trung. Theo QHĐ8, nhiệt điện khí LNG sẽ đẩy mạnh phát triển đến năm 2030 với tổng công suất hơn 22.400 MW, trước khi chuyển dần sang nguồn điện hydro.

Đến nay, mới có 2 dự án đang trong quá trình triển khai xây dựng ở miền Nam là Nhơn Trạch 3 và 4 (1,500 MW) và Hiệp Phước 1 (1,200 MW).

Xu hướng dịch chuyển năng lượng được đánh giá là phù hợp để tránh phụ thuộc vào nguồn khí LNG nhập khẩu, trong bối cảnh giá khí được dự báo tiếp tục duy trì ở mức cao.

Năm 2024, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo nhu cầu khí đốt toàn cầu sẽ tăng 2.5%, tương đương 100 tỷ m3, nhưng nguồn cung sẽ bị thắt chặt (dự kiến tăng 3.5% trong năm 2024, thấp hơn so với tốc độ tăng 8% giai đoạn từ 2016-2020), và công suất LNG mới chỉ được đưa vào sử dụng sau năm 2024. Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị, hạn chế vận chuyển ngày càng gia tăng cũng có thể làm gia tăng căng thẳng thị trường và biến động giá LNG.

Triển vọng phát triển năng lượng tái tạo

Năng lượng tái tạo sẽ đóng vai trò trụ cột trong cơ cấu năng lượng quốc gia. Theo QHĐ 8, trong giai đoạn 2021-2030, nhóm điện gió được đẩy mạnh cả trên bờ và ngoài khơi, sau năm 2030, nhóm điện mặt trời sẽ gia tăng công suất nhanh chóng.

Việt Nam có tiềm năng lớn phát triển điện mặt trời lên tới 914GW. Tiềm năng kỹ thuật  điện mặt trời mặt đất của Việt Nam tập trung chủ yếu tại khu vực Nam Bộ (248 GW), Tây Nguyên (199 GW) nhờ vào số giờ nắng và tổng năng lượng bức xạ cao. Số giờ nắng khu vực phía Nam có số giờ nắng từ 2.300-2.500 giờ/năm (cả nước khoảng 1.800 giờ/năm) phù hợp phát triển điện mặt trời với mức bức xạ cao lên tới gần 2.000 kWh/m2/năm.

Điện gió trên bờ có tiềm năng 221 GW chủ yếu với tốc độ gió tương đối thấp (4,5-5,5 m/s) với 163 GW, còn lại khoảng 30GW tiềm năng có tốc độ gió trung bình và cao tập trung tại Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hiện tại, các dự án điện gió trên bờ đã vận hành, được phê duyệt và nghiên cứu tập trung chủ yếu tại khu vực Tây Nguyên (41.818 MW) và Nam Bộ (40.044MW).

Điện gió ngoài khơi có tiềm năng khoảng 600 GW tập trung chủ yếu tại Nam Trung Bộ (210MW), Nam Bộ (174MW), Trung Trung Bộ (78 MW). Các dự án tiềm năng có trong quy hoạch điện VIII tập trung chủ yếu tại Nam Trung Bộ (72 MW), Nam Bộ (43 MW) và Bắc Bộ (38 MW).

Ngoài điện gió và điện mặt trời, các nguồn năng lượng tái tạo khác cũng có tiềm năng tại Việt Nam.

Với thủy điện, tổng công suất tiềm năng của thủy điện tại Việt Nam lên tới 27,4GW, trong đó đã phát triển 22GW, còn lại là thủy điện nhỏ. Các địa điểm này tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tiềm năng kỹ thuật thủy điện nhỏ hiện tại ở mức 15MW và đã được đưa vào quy hoạch 11,5 MW.

Với điện sinh khối, đến năm 2025, tổng tiềm năng lý thuyết của nguồn sinh khối ước đạt 130 triệu tấ, tổng tiềm năng kỹ thuật ở mức 7.213 MW. Các khu vực tiềm năng cho phát triển điện sinh khối là Bắc Bộ (1.734 MW) và Nam Bộ (2.557 MW) Trong đó, các phụ phẩm nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trên 67%, gỗ và phế thải gỗ chiếm phần còn lại.

Nguồn: https://fireant.vn/bai-viet/nganh-dien-nua-cuoi-2024-du-bao-thuy-dien-phuc-hoi-nhiet-dien-tiep-tuc-huong-loi/25682826

 

 

Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản: Cân nhắc việc cấp phép khai thác khoáng sản nhóm 4

Để đảm bảo công tác quản lý, tránh thất thoát tài nguyên khoáng sản của quốc gia, góp ý Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, nhiều ý kiến cho rằng, cân nhắc việc cấp phép khai thác khoáng sản nhóm 4…

Theo đó, sau tiếp thu, chỉnh lý từ các ý kiến góp ý, Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản đã được chỉnh sửa theo hướng việc cấp phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo hình thức đăng ký hoạt động khai thác để thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Hình sự.

Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản đã được chỉnh sửa theo hướng việc cấp phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo hình thức đăng ký – Ảnh minh họa: ITN

Cụ thể, tại Điều 76 về khai thác khoáng sản nhóm 4, Dự thảo Luật quy định không phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép thăm dò khoáng sản; việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo hình thức đăng ký hoạt động khai thác, trừ trường hợp khai thác tận thu khoáng sản.

Về thủ tục đăng ký, tại Điều 77 của Dự thảo Luật quy định, tổ chức, cá nhân lập hồ sơ đăng ký khai thác khoáng sản nhóm 4 và gửi về UBND cấp tỉnh xác nhận bản đăng ký khai thác khoáng sản.

Và theo quy định tại Dự thảo, khoáng sản nhóm 4 bao gồm các loại đất sét, đất đồi; đất lẫn đá, cát, cuội, sỏi hoặc đất, sét có tên gọi khác chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp, đắp nền đường hoặc móng công trình; đất đá thải mỏ.

Để tránh thất thoát tài nguyên khoáng sản, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về việc cấp phép khai thác khoáng sản nhóm 4 – Ảnh minh họa: ITN

Trước những quy định đã nêu của cơ quan soạn thảo, góp ý xây dựng và hoàn thiện Dự thảo, không ít ý kiến cho rằng, cân nhắc việc cấp phép khai thác khoáng sản nhóm 4.

Theo đại biểu Nguyễn Công Long – Đoàn đại biểu Quốc hội Đồng Nai, không nên bỏ việc cấp phép bằng việc đăng ký khai thác khoáng sản nhóm 4. Bởi, việc cơ quan soạn thảo và thẩm tra tiếp thu ý kiến bằng cách quy định “cấp phép thực hiện theo hình thức đăng ký” thực chất là vẫn giữ nguyên quy định về việc đăng ký và bỏ quy định về cấp phép.

Phân tích về mặt pháp lý, đại biểu Nguyễn Công Long cho rằng, việc đăng ký và cấp phép là 2 thủ tục hoàn toàn khác nhau và giá trị cũng khác nhau. Cấp phép là một xác nhận của Nhà nước để xác nhận quyền, nghĩa vụ của một tổ chức, cá nhân nào đó được phép khai thác. Trong giấy phép đó sẽ bao gồm phạm vi khu vực được khai thác, thời gian khai thác, trữ lượng được khai thác. Các thông tin trong giấy phép khai thác khoáng sản là rất quan trọng để cơ quan tố tụng có thể đấu tranh với tội phạm được gọi là “cát tặc” hiện nay.

“Khoáng sản nhóm 4 chủ yếu là các vật liệu san lấp nền phục vụ cho các công trình giao thông và xây dựng. Chúng ta cũng biết là trong thực tiễn có một loại tội phạm được gọi là “cát tặc” và chúng ta đang phải đấu tranh hết sức cam go từ trước tới nay. Nếu theo phương án bỏ cấp phép, chúng tôi cho rằng, chúng ta sẽ giải quyết cơ bản được vấn đề cát tặc theo hướng là từ nay sẽ khai thác tự do mà không bị xử lý”, vị đại biểu này bày tỏ.

Từ đó đề nghị, điều chỉnh lại quy định theo hướng giữ nguyên việc cấp phép khai thác đối với khoáng sản nhóm 4.

Đồng thời cho rằng, về cải cách thủ tục hành chính nếu quy định theo hướng nêu trên, cũng không phải trở ngại hay rắc rối gì mà có thể cản trở đến tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, việc này hoàn toàn có thể đáp ứng được cả yêu cầu quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng có căn cứ rõ ràng để đấu tranh, xử lý đối với các hành vi vi phạm về thăm dò, khai thác các loại khoáng sản hiện nay.

Liên quan đến vấn đề đã nêu, nhiều ý kiến đề nghị, cần quy định chặt chẽ hơn, có chế tài quản lý sản lượng khai thác khoáng sản, không để xảy ra thất thu ngân sách khi quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế. Việc phân loại các nhóm khoáng sản phải trên cơ sở cả về công dụng, mục đích quản lý và về giá trị sử dụng, không chỉ phân ra các nhóm mà ngay trong từng nhóm cũng phải có phân loại cụ thể, nhất là các khoáng sản đa mục đích và khoáng sản có nhiều công năng sử dụng.

Được biết, cho ý kiến về việc xây dựng và hoàn thiện về Dự án Luật Địa chất và Khoáng sản mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ – Trần Hồng Hà cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu ý kiến của các bộ ngành hữu quan để bổ sung, hoàn thiện Dự án Luật. Đồng thời, chú ý tham khảo, tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế về cách thức quản lý tài nguyên, khoáng sản, theo nguyên tắc, “rõ trách nhiệm quản lý, sử dụng”; không để “một việc, hai người”; không quy định cứng những vấn đề, nội dung thuộc thẩm quyền Chính phủ như bộ máy tổ chức, ngân sách…

“Luật cần có quy định về trình tự điều chỉnh quy hoạch về địa chất, khoáng sản theo hướng rút gọn do tiến bộ khoa học công nghệ giúp hiệu quả đầu tư tăng lên, bảo vệ môi trường và phù hợp xu thế thời đại hơn nhưng không làm thay đổi mục tiêu, quy mô, quá trình thực hiện quy hoạch”, Phó Thủ tướng lưu ý.

Nguồn: https://fireant.vn/bai-viet/du-thao-luat-dia-chat-va-khoang-san-can-nhac-viec-cap-phep-khai-thac-khoang-san-nhom-4/27964515

https://diendandoanhnghiep.vn/du-thao-luat-dia-chat-va-khoang-san-can-nhac-viec-cap-phep-khai-thac-khoang-san-nhom-4-10141420.html

 

Dự Báo Tăng Trưởng Kinh Tế Ngành Xi Măng Nửa Cuối Năm 2024: Khó Khăn Vẫn Còn, Nhưng Cơ Hội Đang Hé Mở

Bài viết dự báo tình hình tăng trưởng của ngành xi măng nửa cuối năm 2024, nhấn mạnh những thách thức như tình trạng giá nguyên liệu và nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, cũng chỉ ra những cơ hội đang hé mở cho ngành này nhờ vào sự phục hồi kinh tế và các dự án hạ tầng lớn.